Trong lịch sử dân tộc, người phụ nữ luôn có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Sinh thời, Bác Hồ đánh giá cao vị trí vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Người nói: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”, “Nhân dân ta anh hùng là nhờ có các bà mẹ Việt Nam anh hùng” vì vậy “Dân tộc ta và Đảng ta đời đời biết ơn các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và cống hiến những người ưu tú, đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt vời bảo vệ non sông gấm vóc do tổ tiên ta để lại”.
Mẹ Suốt - người mẹ anh hùng trên dòng sông Nhật Lệ. Ảnh sưu tầm
Từ thời hai Bà Trưng, hình tượng người phụ nữ Việt Nam gan góc quật cường đã đi vào lịch sử, thơ ca của dân tộc: “Giúp dân dẹp loạn trả thù mình,/ Chị rủ cùng em kết nghĩa binh./ Tô Ðịnh bay hồn vang một trận,/ Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành…/Còn nước còn non còn miếu mạo,/ Nữ trung đệ nhất đấng tài danh”(Hồng Đức Quốc Âm thi tập). Sau này, Bà Triệu đã từng có lời thề tràn đầy khí phách “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém các kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người khác”.
Từ truyền thống quật cường của một dân tộc luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm, người phụ nữ Việt Nam luôn đồng hành với chồng con, đồng hành cùng dân tộc, trung trinh, dũng cảm bảo vệ từng tấc đất cha ông: “Trên đất nước nghìn năm chảy máu/ Nghìn năm người con gái vẫn cầm gươm”(Yến Lan). Biết bao thế hệ phụ nữ Việt Nam đã trở thành những anh hùng bất khuất, khi đất nước bị xâm lăng. Hàng vạn, hàng triệu người phụ nữ Việt Nam hữu danh, hoặc vô danh đã âm thầm cống hiến, hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Họ có thể là những cô gái với tuổi đời còn rất trẻ nhưng vô cùng kiên cường, dũng cảm như chị Võ Thị Sáu: “Người con gái trẻ măng/ Giặc đem ra bãi bắn/ Đi giữa hai hàng lính/ Vẫn ung dung mỉm cười/ Ngắt một đoá hoa tươi/ Chị cài lên mái tóc/ Đầu ngẩng cao bất khuất/ Ngay trong phút hy sinh” (Phan Thị Thanh Nhàn). Hình ảnh 10 cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc đã trở thành bất tử bởi lòng dũng cảm phi thường và những khát khao trong mỗi trái tim mơ mộng mà can trường đã quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh: “Các cô để lại tuổi thanh niên/ Mười chín, hai mươi, hăm hai tuổi/ Cho đất nước, quê hương/ Hồn trong như suối/ Bình minh đời sáng rực vừng dương” (Ngã ba Đồng Lộc- Huy Cận).
Những cô gái tràn đầy nhiệt huyết, lòng yêu nước, thủy chung với cách mạng đã trở thành biểu tượng cao đẹp, vĩ đại, hào hùng. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về chị Trần Thị Lý - người con gái Việt Nam anh hùng với một tấm lòng tôn kính, xót thương vô hạn bởi sự bất khuất, kiên trung trước sự tra tấn dã man, tàn bạo của kẻ thù: “Em là ai? Cô gái hay nàng tiên/ Em có tuổi hay không có tuổi/ Mái tóc em đây hay là mây là suối/ Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông/Thịt da em hay là sắt là đồng?…Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung/ Không giết được em, người con gái anh hùng!/ Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại/ Còn một giọt máu tươi còn đập mãi/ Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời/ Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người”(Người con gái Việt Nam).
Điểm hội tụ cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam có lẽ tập trung nhiều nhất là hình tượng người mẹ. Hình tượng ấy vừa kết tinh vẻ đẹp ngàn đời của người phụ nữ Việt Nam: cần cù, đảm đang, tháo vát, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh nhưng rất kiên cường, dũng cảm. Dường như giữa người mẹ Việt Nam và Người mẹ Tổ quốc có những nét tương đồng đến kì lạ tạo nên sự hòa quyện, gắn kết, thiêng liêng đến diệu kì. Vì vậy, nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“ Việt Nam, ôi Tổ quốc thương yêu!
Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng…
Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời.”
Tri ân những bà mẹ Việt Nam cũng là tri ân Bà mẹ - Tổ Quốc đã sinh ra dân tộc này, những người con của đất nước này.
Tượng đài Mẹ Suốt anh hùng
Trong thơ Tố Hữu, ta bắt rất nhiều hình ảnh những người mẹ anh hùng. Từ “Bà má Hậu Giang”, “Bà Bủ”, “Bầm ơi” cho tới “Mẹ Suốt”, “Mẹ Tơm” những người mẹ đã trở thành huyền thoại. Có những người mẹ đã ngã xuống trước gươm súng của kẻ thù: “Thân tao chết, dạ chẳng sờn!/ Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi/ Một dòng máu đỏ lên trời/ Má ơi, con đã nghe lời má kêu!/ Nước non muôn quý ngàn yêu/ Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang” (Bà má Hậu Giang). Có những hình tượng người mẹ được ngợi ca như những tượng đài lộng lẫy, đã trở thành huyền thoại: “Thương người cộng sản, căm Tây - Nhật/ Buồng Mẹ - buồng tim - giấu chúng con/ Đêm đêm chó sủa... Làng bên động?/ Bóng Mẹ ngồi canh lẫn bóng cồn.../Ôi bóng người xưa đã khuất rồi/ Tròn đôi nắm đất trắng chân đồi/ Sống trong cát chết vùi trong cát/ Những trái tim như ngọc sáng ngời” (Mẹ Tơm). Hình ảnh mẹ Suốt dù tuổi đã sáu mươi vẫn vững tay chèo đò đưa cán bộ qua sông:“Một tay, lái chiếc đò ngang/ Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày/ Sợ chi sóng gió tàu bay/ Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!/ Kể chi tuổi tác già nua/ Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng!/ Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung/ Gió lay như sóng biển tung, trắng bờ...”
Hình ảnh mẹ Suốt tóc bay trong gió che một khoảng trời đã khiến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vô cùng xúc động, đã viết nên tuyệt phẩm “Huyền thoại mẹ” khi về thăm bảo tàng ở Quảng Bình. Hình tượng mẹ Suốt một lần nữa được tái hiện qua những ca từ, giai điệu ngọt ngào sâu lắng khiến người nghe rưng rưng cảm xúc về hình ảnh một người mẹ thật bình dị mà cao cả lớn lao, người mẹ với biết bao những hy sinh thầm lặng không nói hết thành lời: “Mẹ về đứng dưới mưa/ Che từng căn hầm nhỏ/ Xóa sạch vết con về/ Mẹ ngồi dưới cơn mưa/ Mẹ là gió uốn quanh/Trên đời con thầm lặng/ Trong câu hát thanh bình/ Mẹ làm gió mong manh…”.
Theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc, có biết bao người mẹ Việt Nam đã trở thành anh hùng, bất tử trong lòng người dân bao thế mẹ. Mỗi người mẹ mang một vẻ đẹp riêng, nhà thơ Bùi Minh Quốc cho ta thấy vẻ đẹp của sự hi sinh âm thầm, lặng lẽ trong bóng đêm miệt mài không ngừng nghỉ với công việc tưởng chừng nhỏ bé- đào hầm với lòng kính phục khôn nguôi: “Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn xanh/ Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc/ Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác/ Bao đêm rồi tiếng cuốc vọng năm canh”. Dù bị địch tra tấn, đánh đập mẹ vẫn kiên cường bảo vệ, che chở các con và tiếp tục đào hầm: “Trên nắp hầm/ Bầy giặc Mỹ xúm vào đánh mẹ/ Nửa lời không hé/ Mẹ lặng thinh trước những đòn thù./ Trên mình mẹ mang nhiều thương tật/ Tóc mẹ bạc rồi lại bạc thêm/ Nhưng đêm đêm/ Từng nhát cuốc vẫn xoáy vào ruột đất”. Để từ đó, những đoàn quân được nuôi nấng, che chở từ bàn tay mẹ đã vùng lên làm nên những thắng lợi “Có những đoàn quân từ lòng đất xông lên/ Quân thù bạt vía/ Xung quanh chúng đâu cũng là trận địa./ Đất quê ta mênh mông/ Lòng mẹ rộng vô cùng”.
Trong chiến tranh, có biết bao nhưng người vợ mất chồng, người mẹ mất con, gia đình ly tán. Biết bao người mẹ trở thành cô phụ, hết chờ chồng rồi lại trông con, mỏi mòn héo hon. Hình ảnh người mẹ đã khắc hoạ nên những hòn vọng phu, đã đi vào trang sử vàng cũng như lòng người dân Việt. Người mẹ Việt Nam, người phụ nữ quả cảm, dâng cả đứa con thân yêu, là kết tinh của máu mủ chính mình cho quê hương, đất nước thái bình, để không còn cảnh ngoại xâm giày xéo quê hương; vẫn biết rằng đó là sự mất mát to lớn khi bao nhiêu người con yêu đã ra đi không bao giờ trở lại: “Nước mắt mẹ không còn, vì khóc những đứa con lần lượt ra đi... đi mãi mãi...Thời gian trôi qua, vết thương trên thịt da đã lành theo năm tháng. Nhưng vết thương lòng mẹ vẫn còn nặng mang…”(Người mẹ của tôi- Xuân Hồng).
Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng lấy nguyên mẫu từ Mẹ Nguyễn Thị Thứ (xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam). Mẹ Thứ có 9 con trai, một con rể và hai cháu ngoại hy sinh trong hai cuộc đấu tranh chống Pháp và Mỹ
Và trong số những người mẹ vĩ đại ấy, có lẽ mẹ Thứ là người chịu nhiều nỗi đau, mất mát nhất: “Mẹ Thứ có chín người con/ Ra đi vì nước vì non quên mình/ Máu đào nhuộm ánh bình minh/ Trả xong nghĩa lớn ân tình quê hương/ Hy sinh giữa bãi chiến trường/ Từng người ngã xuống tang thương đất trời/ Chiến tranh ơi ! chiến tranh ơi/ Cướp đi lẽ sống tình người ly tan”( Hưng Anh Phú). Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam đều tri ân mẹ: “Đời Mẹ sống trọn nghĩa tình/ Chúng con dân Việt khắc hình mẹ ơi”. Xin cảm ơn Mẹ Thứ và những người Mẹ Việt Nam anh hùng đã hi sinh tuổi xuân và những người thân yêu nhất của mình để cùng với bao lớp người Việt Nam viết nên những trang sử vàng của dân tộc, để đất nước ta có cuộc sống hòa bình, ấm no, tươi đẹp hôm nay.
Hiểu và tri ân những hi sinh, đóng góp của phụ nữ Việt Nam, vì vậy, trước khi về với “thế giới người hiền”, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương tinh thần chiến đấu, hy sinh và căn dặn: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”. Khắc sâu lời dạy và thực hiện tâm nguyện của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển về mọi mặt. Phụ nữ Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò, vị trí và đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, đời sống, xã hội.
Ngày nay, người phụ nữ tiếp tục phát huy những truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam, đồng thời không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức, học tập và rèn luyện, phát huy vẻ đẹp trong thời đại mới: “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang”. Những đóng góp của phụ nữ Việt trong những chặng đường đã qua sẽ là hành trang, động lực và kinh nghiệm quý báu để phụ nữ Việt Nam tiếp tục đem tài năng, trí tuệ của mình góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong giai đoạn mới, kỷ nguyên mới của dân tộc; xứng đáng với 8 chữ vàng mà Bác Hồ đã khen tặng: “Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang”.
PĐH