Văn hóa xã hội

Sông Ba và trục kinh tế Đông Tây

Bắt nguồn từ độ cao 1.549 mét ở dãy núi Ngọc Rô thuộc Tây Bắc tỉnh Kom Tum, chảy dài 374 km, mở ra một lưu vực rộng đến hơn 13.900 km vuông, Sông Ba là con sông lớn nhất và có độ dốc nhất miền Trung. Chính điều này đã tạo nên những nét rất riêng của sông Ba, bên cạnh một nền văn hóa hết sức phong phú ở đôi bờ, sông Ba còn là cửa ngõ của Tây Nguyên ra biển Đông. Đây cũng là con sông Ba có mật độ thủy điện dày đặc bậc nhất cả nước. Men theo sông Ba, là các tuyến đường huyết mạch nối Phú Yên với các tỉnh Tây Nguyên và ngược lại với một tiềm năng kinh tế hết sức lớn lao về nhiều mặt. Những tiềm năng ấy chắc chắn sẽ giúp các tỉnh trong lưu vực nhanh chóng phát triển nếu các trục kinh tế Đông Tây được phát huy.

Hạ lưu sông Ba, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên

Nguồn lực của dòng sông

Dưới thời Chăm pa và triều Nguyễn, Sông Ba đã là trục giao thông đường thủy quan trọng, hành lang kết rừng biển để trao đổi, mua bán hàng hóa, giao thoa văn hóa.

Lưu vực sông Ba và phụ cận bao gồm một phần lãnh thổ của 7 tỉnh: Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Kom Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Bình Định. Về mặt tự nhiên, xét trên góc độ lưu vực thuộc vào 3 lưu vực chính: Sông Ba (Kom Tum, Gia Lai, Phú Yên, Đắk Lắk), Sông Serepok (Đắk Lắk) và Sông Côn (Bình Định). 3 lưu vực này có quan hệ về cân bằng nguồn nước, sinh thái và môi trường. Lưu vực Sông Ba là lưu vực nội địa lớn thứ 2 của lãnh thổ nước ta, nằm cả hai sườn dãy núi cao Trường Sơn và có thể coi là lưu vực chuyển tiếp từ Tây Nguyên xuống duyên hải Nam Trung Bộ. Vì vậy mạng lưới sông suối trong lưu vực sông Ba có những đặc điểm rất khác biệt so với các lưu vực sông khác có cùng vị trí địa lý.

Về truyền thống, giữa các dân tộc sinh sống trong lưu vực đã có mối quan hệ từ lâu đời, cùng chung một hoàn cảnh lịch sử, uống chung một dòng nước. Trong dân gian từ lâu đã lưu truyền câu ca dao nói về sự giao thương và gứn kết giữa 2 miền “Ai về nói với nậu nguồn, mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên”. Đặc biệt, đồng bào thuộc các địa phương miền núi dọc lưu vực sông Ba đã có những đóng góp to lớn trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.

Qua sưu tầm, khai quật khảo cổ học và nghiên cứu cho thấy lưu vực sông Ba là vùng đất có nền văn hóa lâu đời và phát triển ở trình độ cao thể hiện qua các công cụ được chế tác bằng đá như: đàn đá, kèn đá, tù, và đá, rìu, bôn, nao, bàn mài…. Có nền văn hóa đặc trưng là văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chămpa. Bên cạnh đó, còn có những di sản văn hóa vô cùng quý giá của các dân tộc thiểu số vùng bán sơn địa và miền Tây mà tiêu biểu là không gian văn hóa cồng chiêng và sử thi. Lưu vực sông Ba cũng là nơi sản sinh ra nghệ thuật hát tuồng, hô bài chòi, hò bá trao ở vùng hạ lưu sông Ba, các lễ hội cồng chiêng, lễ mừng nhà mới, lễ mừng sức khỏe... của người Ê đê, Ba na, Chăm H’roi….

Về giao thương, lưu vực Sông Ba và vùng phụ cận có Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, Quốc lộ 25 nối Phú Yên với Gia Lai, Qốc lộ 29 nối Phú Yên với Đắk Lắk. Phía Nam tỉnh Phú Yên có cảng Vũng Rô, sân bay Tuy Hòa. Các trục giao thông Bắc - Nam ; Đông - Tây, cảng biển, sân bay có tác động rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật giữa các tỉnh trong vùng, cả nước và quốc tế.

Khu vực các tỉnh lưu vực Sông Ba cách đường nội hải 30 km và tiếp cận các đường hàng hải quốc tế khoảng 190 km, giao lưu dễ dàng với Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Singapore, Philipines…. Đồng thời cũng chế ngự trên đường hàng hải Đông Tây. Qua vùng này là con đường ra biển gần nhất của Lào, Đông Bắc Thái Lan và Campuchia.

Khu vực các tỉnh lưu vực Sông Ba ở vào trung độ của đất nước, nằm trên trục giao thông Bắc Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không; có các trục Đông - Tây gắn kết các cảng Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Thái Lan, Campuchia, nối các cửa khẩu quốc tế như Đức Cơ, Bờ Y với các cảng biển Vũng Rô, Quy Nhơn…

Vị trí này là lợi thế quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho vùng mở rộng giao thông lưu kinh tế các tỉnh Tây Nguyên và các nước nói trên; kích thích và “lôi kéo” các ngành kinh tế của các tỉnh trong vùng phát triển. Khi thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư khu vực ASEAN, vị trí địa lý này càng là lợi thế quan trọng, đảm nhận chức năng đầu nối trung chuyển Bắc - Nam và là 1 hành lang kinh tế Đông - Tây phát triển, cửa ngõ ra biển của Tây Nguyên và các nước láng giềng ở phía Tây đến các nước vùng Bắc Á.

Đa kết nối rừng - biển

Lãnh đạo các tỉnh thuộc lưu vực Sông Ba kỳ vọng, phương án dự kiến sáp nhập tỉnh, thành theo hướng kết nối rừng - biển sẽ giúp các địa phương này tháo gỡ điểm nghẽn về hạ tầng giao thông, rộng đường để nông sản xuất khẩu đi các nước. Khi các tuyến quốc lộ được mở rộng, các tuyến cao tốc được đầu tư, vận hành sẽ thúc đẩy giao thương mạnh mẽ giữa các vùng, giữa Việt Nam với các nước trong khu vực.

Nằm ngay ngã ba Đông Dương, Kon Tum hiện là cửa ngõ kết nối quan trọng với các nước Lào và Campuchia, kết nối trung chuyển trên trục Đông - Tây, rừng - biển thông qua cửa khẩu quốc tế Bờ Y. Nhưng hiện nay, hạ tầng giao thông tại Kon Tum với các tuyến Quốc lộ 24, Quốc lộ 14 đều nhỏ hẹp, quanh co, độ dốc lớn, rất  khó khăn trong lưu thông hàng hoá. Vì vậy, nếu cao tốc Quảng Ngãi - Kon Tum được xây dựng, sẽ giúp các doanh nghiệp giảm chi phí logistics, thông thương giữa Kon Tum với các cảng miền Trung thuận tiện, mở ra cơ hội để thúc đẩy giao thương với các huyện phía nam của Lào thông qua cửa khẩu quốc tế Bờ Y. Ngoài phát triển  kinh tế, tuyến cao tốc còn tạo ra sự kết nối về du lịch, thúc đẩy Măng Đen trở thành trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng quốc tế...

Trong khi đó, Ban Quản lý dự án 2 đã trình Bộ Xây dựng thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn (Bình Định) – Pleiku (Gia Lai). Dự kiến sẽ khởi công ngay trong năm 2025, hoàn thành đưa vào khai thác năm 2029. Cao tốc này có chiều dài khoảng 123km, tổng mức đầu tư khoảng 38.917 tỷ đồng, được đề xuất sử dụng từ nguồn tăng thu ngân sách nhà nước năm 2024, vốn ngân sách Bình Định và Gia Lai, vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026 - 2030. Tuyến cao tốc này sẽ mở rộng quy mô liên kết vùng, phát huy lợi thế của vùng sản xuất, chế biến nông - lâm nghiệp Gia Lai với khu vực kinh tế biển Bình Định, các dịch vụ logistics và vận tải biển sẽ phát triển mạnh hơn.

Còn tại Phú Yên, lãnh đạo hai tỉnh Phú Yên và Đắk Lắk sau khi khảo sát, làm việc đã thống nhất đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phương án nâng cấp Quốc lộ 29, với quy mô đường cấp III, 4 làn xe, bề rộng nền đường 20,5m; vận tốc thiết kế Vtk=60-80km/giờ. Những đoạn tuyến qua các địa phương, thống nhất theo quy mô quy hoạch tại địa phương đã được duyệt. Quốc lộ 29 nối Phú Yên với Đắk Lắk chủ yếu là đường cấp IV miền núi, nhiều đoạn hẹp, xuống cấp. Nhưng hiện tại, lưu lượng phương tiện tham gia giao thông khá lớn, chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hóa, hành khách, đi lại của người dân 2 tỉnh. Điều đặc biệt của Quốc lộ 29 là có điểm đầu tại cảng Vũng Rô, Phú Yên và điểm cuối là cửa khẩu Đắk Ruê, Đắk Lắk - một sự kết nối rừng, biển về giao thông. Toàn tuyến dài khoảng 293km. Hai tỉnh Phú Yên và Đắk Lắk đã thống nhất. Quốc lộ 29 được nâng cấp trên cơ sở 2 tỉnh lộ 645 ở Phú Yên và 691 ở Đắk Lắk.

Theo các chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng, duyên hải miền Trung có đặc điểm chiều ngang hẹp, nhiều đồi núi nên thiếu quỹ đất để phát triển, nên các địa phương này chủ yếu phát triển theo hướng Bắc - Nam. Vì vậy, việc kết nối với các tỉnh Tây Nguyên sẽ giải quyết được bài toán thiếu quỹ đất để phát triển. Các tỉnh Tây Nguyên thì ngược lại, điều kiện tự nhiên là nhiều đồi núi, nhưng hạ tầng giao thông, nhất là hướng Tây Đông ra biển còn nhiều điểm nghẽn. Nếu các tuyến giao thông được mở ra, ngay lập tức sẽ tạo nên hành lang kinh tế Đông Tây. Thay vì vận chuyển hàng hóa đi TPHCM hay ra phía Bắc, vận chuyển hàng hóa theo hướng Đông - Tây xuống các cảng biển duyên hải miền Trung sẽ rất gần hơn, thuận tiện, giảm được chi phí để từ đó, vận chuyển đi khắp nơi trong và ngoài nước.

Theo các chuyên gia kinh tế, để chuẩn bị cho sự kết nối “đa nền tảng” này, các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung bộ nên tập trung vào xây dựng hạ tầng giao thông, đặc biệt là đề xuất Chính phủ đầu tư các tuyến cao tốc. Mỗi địa phương cần một hạ tầng để kết nối “đa phương tiện”, như đường cao tốc từ Tây Nguyên xuống duyên hải phải kết nối vào cao tốc Bắc - Nam, kết nối vào các cảng biển, hệ thống sân bay, để tạo thành chuỗi kết nối không gián đoạn. Đồng thời, các tỉnh trong vùng theo kết nối rừng - biển cũng cần xây dựng các kế hoạch hợp tác phát triển cụ thể, nhất là trên lĩnh vực nông nghiệp, xuất nhập khẩu và du lịch sinh thái, văn hóa...

KTS Ngô Viết Nam Sơn: “Tôi cho rằng đây là một kết nối chiến lược, các tỉnh có thể bổ trợ cho nhau về mặt kinh tế - xã hội rất tốt. Ví dụ như khi có cao tốc thì việc di chuyển giữa Nha Trang - Đà Lạt hay Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột sẽ được rút ngắn. Điều này sẽ thúc đẩy việc trao đổi hàng hóa nông sản và du lịch giữa các địa phương”.

TTH