Từ trong lịch sử, Phú Yên và Đắk Lắk đã có mối lương duyên, gắn kết, thủy chung. Và nay, với sự hợp nhất của 2 địa phương để trở thành tỉnh Đắk Lắk mới, có cả Phú Yên trong lòng, mọi người đều kỳ vọng sẽ có bước phát triển đột phá, trên nền tảng những giá trị hàng trăm năm qua mà nhiều thế hệ tiền nhân đã vun bồi.
Thác Lưu Ly tỉnh Kon Tum đầu nguồn Sông Ba. Ảnh: Lê Ngọc Minh
Bắt nguồn từ độ cao hơn 1.500m ở dãy núi Ngọc Rô thuộc Tây Bắc tỉnh Kon Tum, chảy dài 374 km, mở ra một lưu vực rộng đến hơn 13.900 km vuông, sông Ba là con sông lớn nhất và có độ dốc nhất miền Trung. Chính điều này đã tạo nên những nét rất riêng của sông Ba, bên cạnh một nền văn hóa hết sức phong phú ở đôi bờ, sông Ba còn là cửa ngõ của Tây Nguyên ra biển Đông. Đây cũng là con sông có mật độ thủy điện dày đặc bậc nhất cả nước. Men theo sông Ba, là các tuyến đường huyết mạch nối Phú Yên với Đắk Lắk, các tỉnh Tây Nguyên và ngược lại với một tiềm năng kinh tế hết sức lớn lao về nhiều mặt. Dưới các triều đại Chămpa và nhà Nguyễn, sông Ba đã là trục giao thông thủy quan trọng, là không gian kết nối, phát triển kinh tế biển – rừng, là dòng chảy mang phù sa bồi đắp cho đôi bờ, giúp nhiều cộng đồng dân cư hình thành, sáng tạo, bảo tồn nhiều di sản văn hóa độc đáo.
Từ lâu, người dân 2 tỉnh Phú Yên, Đắk Lắk đã khá quen thuộc với câu ca “Sông Ba chảy xuống Đà Rằng/Ai thương Đắk Lắk cho bằng Phú Yên...”.
Kỳ 1: Từ tiểu quốc Hoa Anh (Kauthara) đến Phú Yên ngày nay
Khởi nguyên, Phú Yên thuộc địa vực của thị tộc Việt Thường xưa, rồi trở thành huyện Lâm Ấp đời nhà Tấn, thuộc đất huyện Tượng Lâm đời nhà Hán. Sang nhà Tùy, đổi làm quận, nhà Đường đổi làm châu, sau là đất Chiêm Thành đến khi trở thành lãnh thổ của quốc gia Đại Việt gắn với quá trình khai hoang, mở cõi từ thời chúa Nguyễn và tiếp tục có sự thay đổi về địa giới, đơn vị hành chính trong thời cận đại, hiện đại.
Tháp Nhạn, biểu tượng sự đa dạng văn hoá tại Phú Yên. Ảnh Lê Ngọc Minh
Dưới thời phong kiến, Phú Yên trải qua nhiều phân cấp hành chính là dinh, trấn, phủ, tỉnh. Giữa năm 1611, chúa tiên Nguyễn Hoàng cử viên chủ sự là Văn Phong tấn công vào Ayaru (vùng đất Phú Yên ngày nay), quân Chăm Pa bị thua, Nguyễn Hoàng sáp nhập vùng Ayaru vào lãnh thổ Đàng Trong với tên gọi Phú Yên và giao cho Văn Phong cai quản vùng đất mới này. Theo lệnh chúa Nguyễn, Văn Phong đã lập cơ quan hành chính và quân sự, lập ra huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa thuộc phủ Trấn Biên. Năm vua Gia Long lên ngôi (1802), gọi là dinh Phú Yên với 2 huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm Gia Long thứ 18 (1819), đổi dinh làm trấn. Năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), đặt phủ Phú Yên. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), đổi phủ Phú Yên làm phủ Tuy An. Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), đổi trấn làm tỉnh.
Thời kỳ đầu thuộc Pháp (1886), tỉnh Phú Yên có phủ Tuy An và hai huyện Đồng Xuân, Tuy Hòa.
Năm 1912, Khâm sứ Trung kỳ báo cáo Toàn quyền Đông Dương sửa đổi ranh giới các tỉnh Trung kỳ. Theo đó, bỏ tỉnh Phú Yên, sáp nhập Phú Yên vào Bình Định, bỏ tỉnh Phan Rang, sáp nhập một phần phía bắc Phan Rang vào Khánh Hòa, một phần phía Nam vào Bình Thuận, bỏ tỉnh Darlac (tức Đắc Lắc ngày nay), chuyển thành đại lý Darlac rồi sáp nhập vào tỉnh Pleikuder (tức Pleiku ngày nay).
Năm 1913, Toàn quyền Đông Dương đặt tỉnh Phú Yên thuộc quyền quản lý của Công sứ Qui Nhơn.
Năm 1932, vua Bảo Đại ra dụ thành lập đô thị Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Yên.
Năm 1954, Tòa đại biểu chính phủ tại Trung Việt lập Nha đại diện hành chính tại Sông Cầu.
Năm 1958, Bộ Nội vụ Việt Nam cộng hòa (VNCH) có nghị định ấn định các đơn vị hành chính tỉnh Phú Yên.
Năm 1959, Tổng thống VNCH có sắc lệnh sáp nhập một số xã nguyên thuộc quận Cheo Reo, tỉnh Pleiku vào quận Sơn Hòa tỉnh Phú Yên. Tiếp đó, ra sắc lệnh sáp nhập vào quận Đồng Xuân tỉnh Phú Yên một phần đất tổng Ia Piao thuộc quận Cheo Reo, tỉnh Pleiku. Cũng năm 1959, tỉnh trưởng Phú Yên ký công văn đổi quận Sông Cầu thành quận Đồng Phước, Tổng thống VNCH ký sắc lệnh ấn định đơn vị hành chính quận Phú Đức thuộc tỉnh Phú Yên.
Năm 1960, Tòa hành chính tỉnh Phú Yên ra thông tư về việc tổ chức các phường, buôn thành thôn hoặc ấp. Cũng trong năm 1960, Tòa đại biểu chánh phủ tại Trung nguyên Trung phần ký công văn về việc sửa đổi lại ranh giới giữa 3 tỉnh Darlac, Khánh Hòa và Phú Yên.
Năm 1962, Tổng thống VNCH ký nghị định thành lập quận Hiếu Xương thuộc tỉnh Phú Yên.
Năm 1963, Tòa đại biểu chánh phủ tại Trung nguyên Trung phần ký công văn đề nghị sửa đổi ranh giới 3 quận Tuy Hòa, Hiếu Xương và Tuy An.
Năm 1965, Thủ tướng chánh phủ VNCH ký sắc lệnh về việc duyệt y đồ án thiết kế tỉnh lỵ Tuy Hòa.
Ngày 20/9/1975, Bộ Chính trị có nghị quyết về việc bãi bỏ khu, hợp tỉnh (trong đó hợp tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa thành tỉnh Phú Khánh).
Năm 1981, Hội đồng bộ trưởng có quyết định về việc phê chuẩn mở rộng thị xã Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Khánh, sáp nhập các xã Hòa Trị, Hòa An, Hòa Thắng…của huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Khánh vào thị xã Tuy Hòa.
Năm 1989, kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa VIII đã ra nghị quyết về việc phân vạch địa giới hành chính của các tỉnh Nghĩa Bình, Phú Khánh và Bình Trị Thiện (tách Phú Khánh thành tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa).
Năm 2002, Chính phủ ban hành nghị định về việc điều chỉnh địa giới hành chính thị xã Tuy Hòa để thành lập huyện Phú Hòa và thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
Năm 2005, Chính phủ ban hành nghị định về việc thành lập thành phố Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Yên, đồng thời điều chỉnh địa giới hành chính để mở rộng thành phố Tuy Hòa. Cũng trong năm 2005, Chính phủ có nghị định về việc thành lập xã thuộc các huyện Tuy Hòa, Sông Cầu và chia huyện Tuy Hòa thành Đông Hòa và Tây Hòa.
Trải qua những biến động của lịch sử, dù nhiều lần chia tách, sáp nhập và thay đổi tên gọi, Phú Yên luôn là tỉnh, là địa bàn có vị trí xung yếu của đất nước, đóng góp to lớn cho sự phát triển chung của dân tộc.
(Xem tiếp kỳ 2: Từ cao nguyên Darlac đến tỉnh Đắk Lắk)
-------------------------
Tài liệu tham khảo:
Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV
Trần Thanh Hưng