Chính trị

Toàn quốc kháng chiến - Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh

Đêm 19/12/1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”. Đó là lời hiệu triệu thiêng liêng, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết, nhất tề đứng lên đánh thực dân Pháp xâm lược.

Lời kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên chống giặc Pháp xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, giành lại quyền độc lập cho dân tộc. Ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đây là thành quả cách mạng hoàn toàn xứng đáng, trở thành mốc son chói lọi, biểu tượng của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do. Toàn dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Vừa ra đời, chính quyền cách mạng non trẻ đã phải đối mặt muôn vàn khó khăn, thử thách. Sản xuất trì trệ, ngân khố trống rỗng, nạn đói hoành hành, “di sản” của chế độ cũ để lại rất nặng nề, 95% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội còn phổ biến. Ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng lấy danh nghĩa quân đồng minh ồ ạt kéo vào nước ta, theo gót là lực lượng phản động Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội. Ở miền Nam, quân Anh vào giải giáp quân Nhật, song thực chất tìm cách dọn đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Bọn phản cách mạng, “Việt quốc”, “Việt cách” tăng cường các hoạt động chống phá, âm mưu thủ tiêu đầu não của chính phủ cách mạng, lật đổ và cướp chính quyền. Vận mệnh dân tộc đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Chống giặc đói, chống giặc dốt và chống giặc ngoại xâm là ba nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu.

Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây hấn đánh chiếm các cơ quan đầu não của chính quyền cách mạng ở Sài Gòn, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, rồi mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc Bộ.

Trước tình hình đó, Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến. Mặt khác, đã tìm các biện pháp đấu tranh linh hoạt, mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng, tránh phải đối phó cùng lúc với nhiều kẻ thù. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấp nhận nhượng bộ cho quân đội Tưởng Giới Thạch và các phần tử tay sai một số quyền lợi chính trị, kinh tế: đặc cách cho một số ghế bộ trưởng trong chính phủ và 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử; nhận tiêu tiền “quan kim”, “quốc tệ”, nhận cung cấp một phần lương thực, thực phẩm…

Tháng 2/1946, chính quyền Tưởng Giới Thạch ký với chính phủ Pháp Hiệp ước Pháp - Hoa; theo đó Pháp nhượng lại một số quyền lợi, nhưng ngược lại, quân Pháp sẽ ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, thực chất là chuẩn bị mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên quy mô cả nước.

Trong bối cảnh mới, Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã quyết định lựa chọn giải pháp tạm thời hoà hoãn, nhân nhượng với người Pháp bằng việc ký Hiệp định Sơ bộ vào ngày 6/3/1946. Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có Chính phủ, Quốc hội, quân đội và tài chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Việt Nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào thay quân Tưởng. Với việc ký Hiệp định Sơ bộ, chúng ta đã đẩy được 20 vạn quân Tưởng về nước, mở ra thời kỳ hòa hoãn tạm thời giữa ta và Pháp.

Bằng sách lược cực kỳ mềm dẻo, khôn khéo, đến ngày 14/9/1946, tại Paris, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với đại diện Chính phủ Pháp một bản Tạm ước, tiếp tục nhượng bộ một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở Việt Nam để có thời gian xây dựng và củng cố lực lượng, tạo thêm thời gian hòa hoãn quý báu cho chính quyền cách mạng non trẻ chuẩn bị lực lượng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.

Ngày 14/9/1946, tại Paris, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Pháp bản Tạm ước. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Việc ký Hiệp định Sơ bộ 6/3, cũng như Tạm ước 14/9, không phải là chúng ta không thấu hiểu được dã tâm của thực dân Pháp, không lường trước được việc họ sẽ bội ước; điều chúng ta cần là giảm bớt đổ máu ngày nào tốt ngày đó, hoà để tiến.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hợp quốc, nêu rõ thiện chí hoà bình, mong mỏi Liên hợp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hoà bình. Đồng thời, Người liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp người cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hoà bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu

Tranh thủ thời gian hoà bình, nhân dân ta ra sức xây dựng lực lượng, củng cố tiềm lực về mọi mặt, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những bước đi mới của thực dân Pháp, cho một cuộc kháng chiến trường kỳ. Ngày 22/5/1946, Chính phủ ra sắc lệnh quy định Vệ quốc đoàn chính thức trở thành Quân đội quốc gia nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra, cách mạng còn có gần một triệu đội viên thuộc lực lượng dân quân tự vệ khắp cả nước, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lường trước.

Với dã tâm của mình, thực dân Pháp khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hoà bình của chúng ta. Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp công khai mưu đồ xâm lược, thiết lập lại nền cai trị thuộc địa đối với Việt Nam, liên tục tiến hành các hành động khiêu khích, trắng trợn vi phạm các điều khoản đã kí kết. Tháng 11/1946, chúng ngang nhiên đưa lực lượng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường,.. đưa quân chiếm một số trụ sở của Chính phủ cách mạng.

Ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, vạch rõ những nét cơ bản về đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài của nhân dân ta.

Ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, yêu cầu: Tước vũ khí tự vệ, đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến, để chúng giữ trật tự trong thành phố [1]. Pháp tuyên bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng 20/12/1946 quân Pháp sẽ hành động.

Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, đối diện lằn ranh đỏ, dân tộc Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông), nhận định khả năng hoà hoãn đã hết và đưa ra quyết định lịch sử: phát động toàn quốc kháng chiến.

Nhà cụ Nguyễn Văn Dương ở làng Vạn Phúc, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay là phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội) là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến"

20 giờ ngày 19/12/1946, tại thủ đô Hà Nội, công nhân Nhà máy điện Yên Phụ phá máy, cả thành phố tắt điện. Khi ánh đèn của Nhà máy điện Yên Phụ tắt, những loạt đạn đại bác của ta từ pháo đài Láng bắn vào các mục tiêu của Pháp trong thành phố, chính thức mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngay trong đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy ra Mật lệnh chiến đấu: “Toàn thể bộ đội Vệ quốc quân và dân quân tự vệ Trung-Nam-Bắc phải: Nhất tề đứng dậy/ Xông tới mặt trận/ Giết giặc cứu nước”[2].

Sáng ngày 20/12/1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đồng bào, chiến sĩ cả nước:

“Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!"[3]

Tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh (Ba Đình, Hà Nội)

Ngắn gọn, nhưng chứa đựng trong đó là sự hùng hồn, đanh thép - Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến là lời hịch non sông, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất; cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đoàn kết, đứng lên chiến đấu chống thực dân Pháp.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính; trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Chấp hành mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy; đáp lại Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta tại các thành phố, thị xã ở bắc vĩ tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng đánh địch. Chiến sự diễn ra vô cùng quyết liệt, đặc biệt là trong các thành phố lớn. Thủ đô Hà Nội là một trong những chiến trường chính trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc. Sau đòn tiến công chủ động, đồng loạt và bất ngờ đêm  ngày 19/12/1946, quân và dân Thủ đô tiếp tục triển khai thế trận chiến tranh nhân dân; công sự, chiến lũy được dựng lên khắp các đường phố. Với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, 60 ngày đêm, quân dân Thủ đô kiên cường bám trụ, giành giật với địch từng mái nhà, góc phố, con đường, làm tiêu hao sinh lực địch, giam chân Pháp trong thành phố nhiều ngày để tạo điều kiện cho các cơ quan đầu não, chủ lực kịp thời sơ tán lên chiến khu Việt Bắc một cách an toàn vào tháng 3/1947. Việt Bắc trở thành Thủ đô kháng chiến.

Cùng với Hà Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược, giành được nhiều chiến công. Các địa phương cũng tiến hành di chuyển các cơ quan, kho tàng, vật chất, tổ chức cho nhân dân tản cư xây dựng thế trận kháng chiến lâu dài.

Thể hiện sâu sắc tư tưởng chiến lược tiến công. Ta chủ động đánh trước đã đẩy địch vào thế bị động đối phó, phá tan âm mưu của Pháp định huy động toàn lực đè bẹp quân và dân ta bằng một đòn tiến công quân sự chớp nhoáng; giáng một đòn mạnh vào chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và ý chí xâm lược của kẻ thù; cổ vũ tinh thần quyết chiến, quyết thắng, làm tiền đề vững chắc cho những thắng lợi tiếp theo trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vĩ đại của dân tộc.

78 năm đã đi qua, nhưng lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên tính thời sự, đó là giá trị của niềm tin tất thắng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, là ý thức sâu sắc giá trị độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Kỷ niệm Ngày Toàn quốc kháng chiến là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ôn lại và tự hào phát huy truyền thống hào hùng của cha ông; dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh, tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

H.A

-----------------------------------------------

[1],[2] Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử Biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập III, Đảng lãnh đạo kháng chiến và kiến quốc (1945-1954) (Xuất bản lần thứ hai), Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr.143, tr.144-145

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4 (1945-1946), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.534.