Quốc phòng an ninh

Tăng cường phòng, chống tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

Theo thống kê, tính đến đầu năm 2024, Việt Nam có gần 78 triệu người sử dụng internet, chiếm tỷ lệ 79% dân số nước ta. Trong giai đoạn đẩy mạnh và tăng tốc chuyển đổi số như hiện nay, các đối tượng xấu đã lợi dụng sự bùng nổ về công nghệ thông tin, những tiện ích mà công nghệ thông tin mang lại để thực hiện các hành vi trái pháp luật. Trong đó, các hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản đang diễn biến phức tạp, khó lường. Trước tình hình đó, để bảo vệ tài sản của bản thân, gia đình và tránh các vi phạm có liên quan, mỗi cán bộ, đảng viên, Nhân dân phải nắm vững các quy định pháp luật, thường xuvên cập nhật các kiến thức mới về công nghệ và nhận diện rõ ràng về những thủ đoạn của tội phạm mạng.

Các thuật ngữ về “mạng máy tính”, “mạng viễn thông có lẽ đã không còn xa lạ với chúng ta. Riêng đối với “phương tiện điện tử”, cần hiểu là “phần cứng, phần mm, hệ thông thông tin hoặc phương tiện khác hoạt động dựa trên công nghệ thông tin, công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ khác tương tự”. Ví dụ như: Máy tính (CPU), điện thoại thông minh, máy ghi hình,...

Điều 290 Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định rất rõ về “Tội sử dụng mạng mảy tính, mạng vin thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Theo đó, người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 290 BLHS:

Một là, sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

Hai là, làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

Ba là, truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;

Bn là, lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;

Năm là, thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.

Toàn cảnh lớp tập huấn chuyên sâu về an ninh, an toàn thông tin cho các học viên là Đội ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng tỉnh

Một điểm cần lưu ý là các hành vi nêu trên không thuộc vào trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo “Tội trộm cắp tài sản” (Điều 173 BLHS) hoặc “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174 BLHS).

Người phạm tội “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Các trường hợp phạm tội có tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; có tính chất chuyên nghiệp; số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; tái phạm nguy hiểm thì hình phạt nặng nhất là tù đến 07 năm. Người phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ thì bị áp dụng hình phạt tù lên đến 15 năm. Và nếu tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; thiệt hại từ 500.000.000 đồng trở lên; số lượng thẻ giả từ 500 thẻ trở lên, người phạm tội có thể “đối mặt” với án phạt lên đến 20 năm tù.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Hiện nay, thực tiễn tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản rất đa dạng, thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt. Trong đó, một yếu tố quan trọng mà người thực hiện tội phạm này tìm mọi cách để khai thác được từ bị hại đó là lấy được thông tin cá nhân của bị hại như: Căn cước công dân, số điện thoại, địa chỉ email, mật khẩu ứng dụng (ví điện tử, tài khoản ngân hàng, tài khoản mạng xã hội, ứng dụng giao tiếp), mã OTP,... Bởi đó là “chìa khóa” để đối tượng có thể tiếp cận nguồn tài sản và thực hiện hành vi chiếm đoạt.

Vì vậy, để “đề kháng” với tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, phòng ngừa các vi phạm đáng tiếc có thể xảy ra, các cán bộ, đảng viên, Nhân dân cần lưu ý và thực hiện tốt những nội dung sau đây:

Thứ nhất, cần thường xuyên tìm hiểu, nắm bắt các quy định pháp luật liên quan đến không gian mạng, cập nhật các thủ đoạn chiếm đoạt tài sản qua mạng để phòng ngừa, tránh các vi phạm pháp luật, dùng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử một cách an toàn, hiệu quả và văn minh.

Thứ hai, nêu cao tinh thần cảnh giác trước các “chiêu trò” của tội phạm mạng, không thực hiện các thao tác theo yêu cầu từ cuộc điện thoại, tin nhắn của người lạ, nhất là đầu số, tin nhắn đến từ nước ngoài; không tự ý đăng nhập, ấn vào các đường dẫn (link) không rõ nguồn gốc. Kiểm tra kỹ các thông tin khi thực hiện giao dịch chuyển tiền; chỉ thực hiện giao dịch trên các website chính thức của các tổ chức tài chính, ngân hàng. Các tài khoản công khai dùng để giao dịch chuyển tiền online cần hạn chế số tiền dư quá lớn.

Thứ ba, tuyệt đối bảo mật thông tin cá nhân, hạn chế tối đa việc đăng tải các thông tin cá nhân lên mạng xã hội, nhất là số điện thoại, địa chỉ nhà ở, thông tin về tài khoản ngân hàng, tài khoản các dịch vụ trên Internet. Không cung cấp thông tin cá nhân, đặc biệt là mã OTP cho bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi chưa biết rõ họ là ai và sử dụng vào mục đích gì. Dùng các biện pháp bảo mật, an ninh để tránh bị tội phạm mạng xâm nhập đánh cắp thông tin. Khi bị mất giấy tờ, các loại thẻ cá nhân (rơi Căn cước công dân, thẻ ngân hàng,...) kịp thời liên hệ cơ quan Công an. ngân hàng để được hướng dẫn giải quyết, tránh bị kẻ gian lợi dụng thông tin để chiếm đoạt tài sản hoặc thực hiện hành vi vi phạm khác.

Th tư, khi gặp các tình huống có nguy cơ hoặc bị tội phạm sử dụng, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản phải hết sức bình tĩnh để có hướng xử lý phù hợp, thông báo ngay cho đơn vị, cơ quan chức năng (Công an, Viện kiểm sát,...), cơ quan chuyên trách về công nghệ thông tin, tổ chức có liên quan (nhà mạng viễn thông, ngân hàng,...)… để được tư vấn và có biện pháp ngăn ngừa kịp thời.

Võ Lum