Bộ Chính trị đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, do Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng ban. Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đối với một địa phương nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế như Phú Yên, Nghị quyết 57 là căn cứ quan trọng để Phú Yên đẩy mạnh hơn nữa ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp.
Camera theo dõi hành vi của con tôm
Từ định hướng của Nghị quyết 57
Bộ Chính trị khẳng định, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bộ Chính trị đề ra mục tiêu đến năm 2030, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao. Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức trên trung bình của thế giới; một số lĩnh vực khoa học, công nghệ đạt trình độ quốc tế. Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế. Tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%; tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt tối thiểu 50%. Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỉ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%. Tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7. Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển. Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân; có từ 40-50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới. Số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10%/năm; số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16-18%/năm, tỉ lệ khai thác thương mại đạt 8-10%. Hạ tầng công nghệ số tiên tiến, hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các nước tiên tiến; từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số...
Bộ Chính trị đề ra tầm nhìn đến năm 2045, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tỉ lệ doanh nghiệp công nghệ số tương đương các nước phát triển; tối thiểu có 10 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến. Thu hút thêm ít nhất 5 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam. Có cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch, sở hữu nhà, thu nhập với nhà khoa học đầu ngành.
Trong 7 nhiệm vụ, giải pháp Bộ Chính trị yêu cầu để thực hiện các mục tiêu trên, thì đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh là một trong những giải pháp quan trọng.
Đến vài hướng đi cho nông nghiệp Phú Yên
Trong nông nghiệp, làm thế nào để có thể kiểm soát được trạng thái của môi trường sản xuất một cách chủ động luôn là mơ ước của mọi người từ xưa tới nay. Chúng ta biết có rất nhiều yếu tố tác động lên kết quả sản xuất nông nghiệp như thời tiết, giống, đất, nước, phân bón cho cây trồng, thức ăn cho vật nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, phương pháp bảo quản,… Làm thế nào nắm được thông tin về từng yếu tố đó ở trạng thái động, diễn biến trong quá trình canh tác? Trước đây, người ta chỉ biết được một số thông tin nhờ các thiết bị đo hay dựa vào kinh nghiệm thực tế. Ngày nay, trong thời công nghệ số, gần như tất cả các thông số kỹ thuật cần biết trong sản xuất nông nghiệp đều có thể đo được.
Trồng rau trong nhà màng, nuôi tôm siêu thâm canh...là vài hướng đi mà các chuyên gia chuyển đổi số cho rằng, nông nghiệp Phú Yên hoàn toàn có thể phát triển.
Phú Yên không phải là vùng chuyên canh rau, nhưng từ xưa, làng rau Bình Ngọc đã nổi tiếng, cung ứng rau xanh các loại cho nhiều tỉnh thành. Bên cạnh Bình Ngọc, nhiều địa phương tại Phú Yên như Khu ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, một số hợp tác xã, gia đình...cũng bắt đầu chuyên canh rau trong nhà mang.
Việc theo dõi diễn biến khí hậu người trồng rau có thể chủ động nhờ sử dụng IoT (internet kết nối vạn vật) để đo các thông số nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, ánh sáng, độ gió diễn biến theo thời gian thực để có thể điều khiển đóng/mở mái che, quạt phun sương điều chỉnh nhiệt độ, quạt gió,…Sử dụng IoT cũng đáp ứng được yêu cầu xử lý đất, giá thể, đo trạng thái ban đầu của đất như độ pH, hàm lượng kim loại nặng trong đất, độ ẩm, độ dinh dưỡng trong đất, kết cấu đất, xác định mầm bệnh trong đất,… để xử lý, cân bằng pH đất, loại bỏ kim loại nặng, diệt mầm bệnh trong đất, bổ sung dinh dưỡng và khoáng cho đất. Đối với giá thể cũng tương tự nhưng dễ thực hiện hơn. Về xử lý nước và điều khiển tưới trộn dinh dưỡng: Sử dụng IoT để đo trạng thái nguồn nước đầu vào như độ pH, hàm lượng kim loại nặng, độ mặn, độ phèn,… để xử lý, tạo ra nguồn nước sạch tưới cây. Cây trồng cần 17 loại dưỡng chất và khoáng (cả đa, trung, vi lượng) với hàm lượng và tỷ lệ khác nhau theo chu kỳ sinh trưởng của cây nên cần trộn những thành phần dinh dưỡng đó vào nước để tưới (nhỏ giọt) cho cây trồng hàng ngày theo đúng nhu cầu của cây. Việc này chỉ máy mới làm được, con người không có khả năng pha trộn chính xác cho từng ngày theo chu kỳ sinh trưởng của cây. Về yêu cầu giám sát trạng thái cây trồng (hình thái lá, hoa, tốc độ tăng trưởng, dấu hiệu bệnh lý): Sử dụng camera quan sát và IoT cho mục đích này và kích hoạt hệ thống phòng ngừa, trị bệnh kịp thời. Về giám sát nguồn gốc hàng hóa: Sử dụng QR code gắn với sản phẩm trong quá trình canh tác (ví dụ cho từng quả dưa lưới) và hệ thống kỹ thuật số để giám sát nguồn gốc và chất lượng hàng hóa. Các chuyên gia đã thử nghiệm với dưa lưới, hoa, ớt ngọt và chanh dây,… bằng cả phương án đo bằng thiết bị IoT, số liệu do người ghi chép và xử lý thủ công (ví dụ đóng mở lưới, vặn van,…) và phương án tự động hóa. Kết quả cho thấy sử dụng hệ thống kỹ thuật số tự động mang lại hiệu quả cao hơn các phương pháp khác.
Trồng rau quả trong nhà màng có mức kiểm soát cao như mô tả trên đây nên áp dụng cho những sản phẩm mang lại doanh thu cao trên một đơn vị diện tích như hoa, dưa lưới, ớt ngọt, chanh dây, dâu tây, cây dược liệu,… vì chi phi ban đầu khá cao: khoảng 3-4 tỷ đồng/ha trở lên. Với những sản phẩm có giá trị cao và ổn định trên thị trường thì mức đầu tư đó là hợp lý. Ví dụ chanh dây trồng trong nhà màng theo phương pháp hữu cơ và được kiểm soát chặt chẽ cho năng suất 100 tấn/ha/năm. Giá bán tại vườn là 45,000 đồng/kg. Mỗi hecta thu được 4.5 tỷ đồng/năm. Như thế, khoảng hơn 2 năm là hòa vốn. Đó là mức nhà đầu tư mong muốn.
Phú Yên cũng là địa phương có lợi thế nuôi tôm siêu thâm canh. Nuôi tôm là nghề siêu lợi nhuận nhưng phải giải vượt qua rất nhiều thách thức. Khó khăn nhất là phải kiểm soát được trạng thái của môi trường nước trong hồ nuôi tôm nhằm đảm bảo an toàn cho sức khỏe con tôm. Để làm việc này các cơ sở nuôi tôm siêu thâm canh đã tiến hành, về nguồn nước đầu vào: Sử dụng IoT đo độ pH, độ mặn, độ oxy hòa tan, độ đồng đều của nguồn nước để xử lý, điều chỉnh pH nước, làm sạch nước và đảm bảo an toàn trước khi đưa vào bể nuôi. Về điều khiển dòng nước, đối lưu, thu gom và xử lý chất thải, thức ăn thừa, xử lý mùi hôi,…: Sử dụng IoT để đo các thông số liên quan cho hệ thống chấp hành thực hiện.
Về trạng thái nước trong hồ nuôi: Trong khi nuôi, có nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp lên con tôm trong đó chất thải của tôm và thức ăn thừa tạo ra NO2, NO3,… là nguy hiểm nhất đối với con tôm và cần phải loại bỏ. Chỉ có cách sử dụng IoT đo hàm lượng NO2, NO3 trong nước mới có thể chủ động giải được bài toán hóc búa này và chỉ nên giải bằng phương pháp vật lý hay sinh học (không dùng hóa chất). Về giám sát hành vi của con tôm: Tôm là sinh vật nhạy cảm, nó cũng biểu hiện cảm xúc vui buồn hay bị stress. Các camera theo dõi hành vi cho biết trạng thái của nó để có những điều chỉnh kịp thời (lượng và loại thức ăn, chế phẩm trị bệnh cho tôm,…). Về giám sát nguồn gốc hàng hóa: Ứng dụng blockchain trong giám sát nguồn gốc hàng hóa cho từng mẻ nuôi.
Những thử nghiệm và kết quả hoạt động trong 4 năm liền cho thấy nuôi tôm theo đúng nghĩa hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao mang lại hiệu quả kinh tế cao (có thể đạt 10 tỷ đồng/ha/năm) nhưng đầu tư không nhỏ (trung bình 10 tỷ đồng cho 1 ha nhà màng với các cơ chế tự động hóa cao) và phải tuân thủ quy trình rất nghiêm ngặt. Có những nơi, người tham quan không được phép vào vì sẽ mang vi khuẩn vào theo lây bệnh cho tôm.
Những mô hình sản xuất tiên tiến nhất không thể thiếu công nghệ số (sản xuất trong nhà màng, nuôi tôm siêu thâm canh,…). Trong nhiều trường hợp, công nghệ số mang lại hiệu quả sản xuất cao hơn hẳn (30% - 70%) so với không áp dụng (như tưới nhỏ giọt, tưới trộn dinh dưỡng, aquaponics,…). Công nghệ số luôn đi cùng với các công nghệ cao khác: Công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ vật liệu mới, công nghệ vật lý, vật lý – sinh học, công nghệ robot và tự động hóa, logistics… Trong đó, công nghệ số không trực tiếp quyết định chất lượng cây trồng, vật nuôi nhưng lại đóng vai trò nền tảng giúp người sản xuất biết rõ những gì đang diễn ra và trong một số trường hợp tự xử lý sự việc (theo cơ chế máy học). Chuyển đổi số là quá trình tạo ra các thành phần số giúp cho hệ thống hoạt động một cách thông minh hơn, hiệu quả hơn. Chỉ nên ứng dụng công nghệ số và những công nghệ cao khác cho canh tác an toàn dựa trên nền tảng hữu cơ hay nông nghiệp sinh thái mới giúp nông sản Việt Nam nói chung, của Phú Yên nói riêng, mới chiếm lĩnh được thị trường quốc tế.
TTH
* Bài viết có tham khảo tư liệu của chuyên gia CĐS, TS Nguyễn Tuấn Hoa