Mới đây, Tỉnh ủy Phú Yên đã ban hành Nghị quyết số 47-NQ/TU ngày 24/02/2025 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh. Nếu xem Đề án 06 đóng vai trò tiên phong, dẫn dắt trong thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, đổi mới phương thức quản trị quốc gia; thì Nghị quyết 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 47-NQ/TU ngày 24/02/2025 của Tỉnh ủy Phú Yên về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là “kim chỉ nam” để các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện nhiệm vụ trên một cách trọng tâm, xuyên suốt và đột phá trong thời gian tới.
Đồng chí Cao Thị Hòa An, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh kiểm tra việc thực hiện Đề án 06 trên địa bàn TP. Tuy Hòa
Mục tiêu cơ bản của Nghị quyết 47
Đến năm 2030, Phú Yên phấ đấu về tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được nâng lên mức trung bình khá trong các tỉnh, trong đó phấn đấu đạt mức tiên tiến của cả nước ở một số lĩnh vực gắn với lợi thế biển, như công nghiệp (luyện kim, lọc, hóa dầu, năng lượng...), du lịch dịch vụ chất lượng cao, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, vận tải biển, logistics; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức trên trung bình của quốc gia; có ít nhất 01 doanh nghiệp công nghệ tiên tiến.
Phấn đấu đạt xếp hạng năng lực cạnh tranh số và xếp hạng chỉ số đánh giá chuyển đổi số (DTI) ở mức trung bình cả nước. Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GRDP. Tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt tối thiểu 80%. Tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 30% trong tổng số doanh nghiệp. Khoa học, công nghệ và đổi mới 3 sáng tạo góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7.
Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) phấn đấu đạt 2% GRDР, trong đó tỷ trọng kinh phí từ xã hội chiếm 60%; Phấn đấu bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và tăng dần theo yêu cầu phát triển của tỉnh. Hệ thống tổ chức khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được sắp xếp lại bảo đảm hiệu lực, hiệu quả,gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu - ứng dụng - đào tạo. Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 11 người trên một vạn dân; có ít nhất 01 - 02 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng toàn quốc; số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ tăng trung bình 10 - 18 %/năm,tỷ lệ khai thác thương mại đạt 5 - 10%. Hạ tầng công nghệ số tiên tiến, hiện đại, dung lượng lớn, băng thông rộng ngang tầm các tỉnh trong khu vực; từng bước ứng dụng một số công nghệ chiếnlược, công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối, bán dẫn, nano, thông tin di động 5G, 6G, thông tin vệ tinh và một số công nghệ mới nổi.
Tỷ lệ người sử dụng có khả năng truy nhập băng rộng cố định với tốc độ trên 1Gb/s đạt 100%. Phủ sóng 5G toàn tỉnh. Thực hiện quản lý nhà nước trên môi trường số, kết nối và vận hành thông suốt giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. Hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành; khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên số, dữ liệu số, hình thành sàn giao dịch dữ liệu. Phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hóa số đạt mức trung bình cao trong các tỉnh. Phát huy Trung tâm dữ liệu tỉnh, triển khai kết nối, đồng bộ dữ liệu với Trung tâm dữ liệu quốc gia. Dân số từ 15 tuổi trở lên có tài khoản thanh toán điện tử đạt tỷ lệ từ 95% trở lên. Dân số trưởng thành có chữ ký số hoặc chữ ký điện tử cá nhân đạt tỷ lệ từ 70% trở lên. 90% người dân có hồ sơ sức khỏe điện tử. Phú Yên thuộc trong các tỉnh bảo đảm về an toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu.
Đến năm 2045, Phú Yên phấn đấu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vũng chắc, góp phần đưa Phú Yên trở thành tỉnh có nền kinh tế đa dạng và thịnh vượng; phát triển đạt mức khá so với các địa phương trong cả nước; nâng cao chỉ số đổi mới sáng tạo. Phú Yên có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 40% GRDP. Tỷ lệ doanh nghiệp công nghệ số tương đương các tỉnh trong vùng. Tiếp tục thu hút tổ chức, doanh nghiệp mạnh về công nghệ số đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại tỉnh.
Phú Yên phát huy lợi thế để đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Chuyển đổi số là quá trình chuyển đổi từ phương thức sản xuất tự động hóa sang phương thức sản xuất thông minh hóa. Tự động hóa là hình thái sản xuất đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 (CMCN 3) còn thông minh hóa là hình thái sản xuất đặc trưng của CMCN 4. Như thế, cũng có thể nói CĐS là quá trình chuyển từ CMCN 3 sang CMCN 4.
Động lực của quá trình này là công nghệ số. Những thành tựu to lớn mà công nghệ số đạt được vào đầu thế kỷ 21 và đạt tới độ chín từ sau 2010 đã làm thay đổi thế giới. Dựa vào công nghệ số, người ta thiết kế được những hệ thống tự động thông minh, thay thế con người làm những công việc mà trước đó con người vẫn phải tự làm, dù có sự hỗ trợ của máy tính, bắt đầu từ những việc đơn giản như điều khiển tưới cây, cho vật nuôi ăn tự động,... tới những hoạt động phức tạp có tính tổ chức cao như phương tiện tự lái (ô tô, tàu điện ngầm, tàu biển, máy bay, UAV…), cánh đồng tự canh tác, hầm mỏ tự khai thác, hệ thống cảng tự bốc xếp hàng hóa,… như sẽ được đề cập dưới đây.
Lĩnh vực nông nghiệp là một ví dụ. Và đây cũng chính là thế mạnh của Phú Yên với mô hình “Cánh đồng tự canh tác” trong tương lai.
Từ xưa đến nay, nghề nông luôn được xem là nghề vất vả, nặng nhọc, sinh lời ít và chịu nhiều rủi ro. Đó là nghề lâu đời nhất của nước ta, nghề có nhiều người tham gia nhất với khoảng 70% dân số làm nghề nông hoặc có liên quan đến nghề nông. Vì vất vả, rủi ro nên trong thâm tâm, người nông dân luôn mơ ước “Giá mà có cái máy nào đó làm thay mình!”.
Ước mơ đó không phải viển vông mà có thể trở thành hiện thực trong kỷ nguyên số. Tạo ra những “cánh đồng tự canh tác” là mục tiêu trực tiếp của quá trình CĐS trong nông nghiệp. Trên thế giới đã xuất hiện nhiều mô hình “nông nghiệp thông minh” nơi máy móc tự làm việc, từ làm đất, gieo trồng, chăm sóc đến thu hoạch mà không có sự can thiệp của con người, trừ khi cần thiết.
Sử dụng các công nghệ số vào sản xuất nông nghiệp người ta nhận ra rằng máy còn làm tốt hơn con người! Cụ thể là máy làm đất (cày, xới, làm phẳng,…) có thể đo được các thông số kỹ thuật của đất như độ pH, độ dinh dưỡng, độ thoáng khí, độ nhiễm mặn, nhiễm phèn (nếu có),… và có thể xử lý ngay lập tức (theo thời gian thực) nếu được trang bị cơ chế cân bằng hệ sinh thái tự nhiên. Đó là điều con người không làm được. Hệ thống công nghệ số có thể xác định được nhu cầu dinh dưỡng, khoáng chất và nước của cây và điều tiết chúng vừa đủ cho cây trồng trong suốt quá trình phát triển. Tất cả mang lại cho nông nghiệp bộ mặt hoàn toàn mới, với những khái niệm rất mới: Nông nghiệp số, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp chính xác.
Nông nghiệp thông minh. Nguồn: Vicon
Với một tỉnh có lợi thế về cảng biển như Phú Yên, thì mô hình “Cảng thông minh” trong CĐS cũng là tiềm năng lớn cho Phú Yên.
Cảng Thiên Tân, Trung quốc là cảng “thông minh” nhất thế giới hiện nay. Tất cả các quy trình vận hành cảng đều được thông minh hóa (tự động hóa theo hướng tối ưu trong mọi tình huống). Nhờ vậy, thời gian trung bình bốc xếp hàng lên một con tàu (uploading) hay bốc dỡ hàng từ tàu (downloading) đã giảm từ 8 tiếng xuống 40 phút. Đây là hướng phát triển mà tất cả các cảng biển trên thế giới hướng đến: Xây dựng cảng thông minh.
Cảng Thiên Tân. Nguồn: Huawei, Smart port
Từ 2 ví dụ nêu trên giúp chúng ta nhận ra rằng các quy trình sản xuất truyền thống trong nông nghiệp, vận tải biển (và tất cả các lĩnh vực khác) đều được chuyển thành quy trình sản xuất thông minh nhờ ứng dụng công nghệ số. Chúng có một điểm chung là đều được thiết lập từ cơ chế điều khiển cơ bản với các chức năng “Thu thập dữ liệu – Xử lý dữ liệu – Ra quyết định - Thực hiện quyết định” được thực hiện tự động. Trong đó, thu thập dữ liệu bằng IoT và thực hiện quyết định thông qua cơ chế chấp hành (actuator) để điều khiển quy trình sản xuất được thực hiện trong thế giới thực, xử lý dữ liệu và ra quyết định diễn ra trong không gian số.
Chương trình CĐS quốc gia được công bố vào tháng 6 năm 2020, đến nay là 5 năm, một khoảng thời gian ngắn so với lịch sử nhưng lại có ý ngĩa vô cùng quan trọng vì đó là những năm bản lề của quá trình chuyển đổi từ phương thức sản xuất truyền thống của nước ta (thủ công - bán tự động) sang phương thức sản xuất thông minh.
Chúng ta kỳ vọng, NQ 57 của TW, NQ 47 của Tỉnh ủy, sẽ là “kim chỉ nam” giúp Phú Yên phát triển mang tính đột phá trong thời gian tới.
NTH-TTH