Chính trị

Kỷ niệm 114 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 - 5/6/2025): Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam - Người tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân.

Tranh họa Người thanh niên Nguyễn Tất Thành chuẩn bị rời Tổ Quốc lên con tàu Latouche-Tréville ngày 5/6/1911 (Ảnh sưu tầm)

Nguyễn Tất Thành sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho có truyền thống hiếu học, ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống yêu nước. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than, Nhân dân cơ cực, nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người sớm tiếp cận với các tư tưởng lớn của phương Đông, hấp thụ truyền thống văn hóa của dân tộc và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cuộc cách mạng Pháp năm 1789 đã gây ấn tượng mạnh mẽ và thôi thúc Người tìm hiểu “cái gì ẩn sau” những từ đẹp đẽ ấy ở chính nước sinh ra khẩu hiệu đó.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng Việt Nam tuy rất sôi nổi nhưng lại bế tắc về đường lối và tổ chức, hầu hết đều bị thất bại trước sự đàn áp của thực dân Pháp. Người rất khâm phục các bậc tiền bối như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám… nhưng không đi theo con đường đấu tranh của các bậc tiền bối. Người nghĩ rằng: việc giải phóng đồng bào không phải là tìm xem nước nào giúp được mình mà điều quan trọng là phải đi ra nước ngoài nghe, tìm hiểu, xem xét nhân dân thế giới họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào mình.

Từ suy nghĩ đó, thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Ngày 5/6/1911, trên con tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin (Latouche Tréville), từ bến cảng Nhà Rồng của thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Gần mười năm, vừa lao động kiếm sống, viết báo, vừa tiến hành khảo sát thực tiễn nhiều nước tư bản và các nước thuộc địa, khảo sát các cuộc cách mạng ở các nước Pháp, Anh, Mỹ… Nguyễn Tất Thành đã có nhận thức quan trọng: cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng là những cuộc cách mạng chưa đến nơi. Nó đã phá tan gông xiềng phong kiến cùng những luật lệ hà khắc và những ràng buộc vô lý để giải phóng sức lao động của con người, nhưng cách mạng xong rồi dân chúng vẫn khổ, vẫn bị áp bức, bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Từ đó, Người đi đến kết luận, chúng ta đổ xương máu để làm cách mạng thì không đi theo con đường này.

Năm 1917, Nguyễn Tất Thành tham gia hoạt động trong phong trào của những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây bản yêu sách 8 điểm của Nhân dân An Nam, yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho Nhân dân An Nam. Tuy yêu cầu của Người không được chấp nhận, nhưng đã vạch trần bản chất giả dối của cường quốc thống trị. Người Pháp coi đây là quả bom làm chấn động dư luận nước Pháp, còn người Việt Nam lại coi đó là tiếng sấm của mùa xuân.

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua (nước Pháp), tháng 12/1920 (Ảnh tư liệu)

Bước ngoặt quan trọng trên hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc và về đảng cách mạng được mở ra lần đầu tiên khi Người tiếp xúc với “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité), tháng 7/1920, đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc… Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng này, Người đã nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III”. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tháng 12/1920. Sự kiện này là một mốc lịch sử quan trọng trong hành trình đi tìm đường cứu nước của Người, đánh dấu bước chuyển biến quyết định, nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người - từ một nhà yêu nước chân chính trở thành một chiến sĩ cộng sản. Đồng thời, sự kiện này cũng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu quá trình kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc ngày càng có hệ thống và hoàn thiện khi Người tham gia Đảng Cộng sản Pháp, sang Liên Xô sống trong không khí sục sôi của trung tâm phong trào cộng sản và học tập ở Đại học Phương Đông, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, nhận thức của Người về sức mạnh của nhân dân lao động thế giới, về mối quan hệ giữa các dân tộc bị áp bức, giữa cách mạng ở các thuộc địa và các nước chính quốc trong đấu tranh chống đế quốc, về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, về chính quyền cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng… ngày càng sâu sắc và có những luận điểm bổ sung, phát triển, sáng tạo.

Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc), bắt đầu cho công việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp Nhân dân, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và tổ chức phát triển lực lượng cách mạng trong khắp cả nước. . Từ đó lần lượt các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập ngày 17/6/1929; An Nam Cộng sản Đảng thành lập tháng 11/1929; Đông Dương Cộng sản Liên đoàn thành lập ngày 01/01/1930. Tuy nhiên, ở một nước mà có ba tổ chức đảng cộng sản nên không thể tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Việc khắc phục sự phân tán về tư tưởng và chia rẽ về tổ chức là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản, cũng là đòi hỏi khẩn thiết của cách mạng nước ta lúc bấy giờ. Vì vậy, từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930 tại bán đảo Cửu Long (Hồng Kông, Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đã đứng ra chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, nhất trí thành lập một Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Người soạn thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất chứng tỏ tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam đã được hình thành rõ nét.

Sau 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Một trang sử mới mở ra trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người và cũng là bước ngoặt mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Từ đây, được sự dẫn dắt của Người, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta làm nên những cuộc cách mạng vĩ đại như: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “long trời lở đất” giành chính quyền về tay Nhân dân, thành lập Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; làm nên Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc sự đô hộ gần 100 năm của thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương; đến đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, kết thúc 30 năm đấu tranh gian khổ và ác liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từ đây đất nước được thống nhất, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Qua 50 năm xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam từ một nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nghèo nàn, lạc hậu, lại bị bao bao vây cấm vận tứ bề, nhưng với tinh thần quật khởi “không có việc gì khó”, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế. Hiện nay đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, hùng cường của dân tộc Việt Nam, với mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong 95 năm qua càng khẳng định con đường cứu nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra là vô cùng đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

Nhân kỷ niệm 114 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, chúng ta có dịp ôn lại thân thế, sự nghiệp vĩ đại của Người, khẳng định công lao to lớn mà Người đã tìm ra con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc Việt Nam thoát khỏi lầm than, nô lệ, đi đến vinh quang. Đây cũng là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nêu cao trách nhiệm, nỗ lực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.

Hồng Thái