Bảo vệ nền tảng tư tưởng

ĐOÀN KẾT LÀ CỘI NGUỒN CỦA “Ý ĐẢNG – LÒNG DÂN

Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền mà là một chiến lược cách mạng có cơ sở lý luận sâu sắc, thực tiễn phong phú và giá trị bền vững. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò của sức mạnh đoàn kết, coi đó là cội nguồn tạo nên mọi thắng lợi của cách mạng. Trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là một tư tưởng trung tâm, xuyên suốt, gắn liền với lập trường cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, được Người tiếp thu, phát triển và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.

Đồng chí Nguyễn Quốc Hoàn (thứ ba từ phải sang) tiếp nhận kinh phí hỗ trợ xây nhà Đại đoàn kết từ doanh nghiệp, trước sự chứng kiến của đồng chí Cao Thị Hòa An, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh (thứ ba từ trái sang) và các đồng chí lãnh đạo HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ tỉnh. 

Cội nguồn tư tưởng - phương pháp luận của đại đoàn kết toàn dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc phản ánh một hệ quan điểm nhất quán về con người, xã hội và cách mạng. Người quan niệm Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là nguồn gốc sức mạnh quyết định sự thành bại của mọi sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng ấy kết tinh từ thế giới quan duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung và tinh thần cộng đồng bền vững của dân tộc Việt Nam.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân.” Người khẳng định, đại đoàn kết trước hết phải bắt đầu từ việc đoàn kết đại đa số nhân dân lao động, công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác đó là “nền gốc”. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, Người đề cao tinh thần cởi mở, khoan dung và linh hoạt trong chiến lược tập hợp lực lượng: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ.” Với Hồ Chí Minh, đoàn kết không chỉ là mục tiêu mà còn là phương pháp để tập hợp mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ, xây dựng lực lượng cách mạng rộng lớn, vững mạnh và bền chặt.

Tư tưởng đại đoàn kết trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xem đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu và là nguyên tắc tổ chức chiến lược. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng đã kiên trì quan điểm “lấy dân làm gốc”, xác định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định thành công của cách mạng.

Sau Đại thắng Mùa Xuân 1975, khi đất nước thống nhất, Đảng chủ trương củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, đặc biệt qua việc thống nhất các tổ chức Mặt trận thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1977. Đây là bước phát triển mới về thể chế, khẳng định vai trò then chốt của Mặt trận trong tổ chức và phát huy sức mạnh nhân dân trên phạm vi cả nước.

Không chỉ khẳng định về nguyên tắc, Đảng còn cụ thể hóa thành các phương châm hành động rõ ràng: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, đồng thời đề cao vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Người dân khu phố Lê Duẩn, phường 7 (TP Tuy Hòa) biểu diễn văn nghệ tại ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư.

Ý Đảng - Lòng Dân: Sự hội tụ sức mạnh toàn dân tộc

Trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước đang tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng có vai trò chiến lược. Đảng xác định rõ: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại… là mục tiêu xuyên suốt để đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.” Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết không chỉ là di sản, mà còn là kim chỉ nam cho hành động; là sự kết tinh giữa lý tưởng cộng sản và truyền thống dân tộc; giữa “Ý Đảng” và “Lòng Dân”. Chính sự đồng thuận sâu sắc ấy đã và sẽ tiếp tục là động lực quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong mọi thời kỳ.

(HPB)