Chính trị

Chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội khắp năm châu

Điện Biên Phủ là một vùng đất có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, nằm ở ngã ba gần với các nước: Lào, Trung Quốc, Thái Lan và Myanma. Điện Biên Phủ là vị trí hiểm yếu, dễ phòng thủ và khó tấn công bằng bộ binh từ ngoài vào. Pháp coi đây là vị trí then chốt để xây dựng căn cứ lục quân, không quân lợi hại để xâm lược Đông Dương và Đông Nam Á.

Bộ đội ta phất cờ chiến thắng trên nắp hầm của Sở chỉ huy của địch. Ảnh sưu tầm

Sau nhiều lần thất bại trên các chiến trường, ở các vùng xung yếu như Lai Châu, thượng Lào, hạ Lào, bắc Tây Nguyên... ngày 20/11/1953, địch cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ để tăng cường lực lượng, biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương để thực hiện ý đồ thu hút quân chủ lực ta đến đó để tiêu diệt rồi chuyển sang tấn công trên nhiều mặt trận. Tổng số quân địch đóng ở Điện Biên Phủ lúc cao nhất lên đến 16.200 tên, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đơn vị xe tăng 10 chiếc, 1 phi đội không quân thường trực 14 chiếc. Với quân số đông, hỏa lực mạnh, cộng sự vững chắc, các tướng Pháp, Mỹ huênh hoang: "Đây là một pháo đài bất khả xâm phạm".

Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Đảng ta họp và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ trong chiến cục Đông Xuân năm 1953 - 1954. Trung ương Đảng quyết định thành lập Bộ Chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp mặt trận. Với khẩu hiệu: "Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", Đảng đã huy động đến mức cao nhất sức người, sức của cho Chiến dịch Điện Biên Phủ: hơn 26 vạn dân công với trên 10 triệu ngày công đã tham gia phục vụ chiến dịch; 27.400 tấn gạo được huy động chuyển đến mặt trận; hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với công binh mở mới và sửa chữa hàng nghìn kilômét đường; hàng vạn xe thồ, xe trâu, bò, ngựa, thuyền bè cùng xe tải được dùng vận chuyển gạo, thực phẩm và đạn dược ra mặt trận; lần đầu lực lượng pháo binh của ta xuất trận, hàng chục cỗ pháo lớn nhỏ do sức người kéo là chính đã vượt dốc, trèo đèo được đưa vào vị trí chiến đấu một cách an toàn và bí mật; hàng trăm kilômét đường hầm được đào, làm thành một hệ thống chằng chịt, ôm chặt lấy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Chiều ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng mở đầu đợt tấn công lần thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chỉ sau bốn ngày (từ ngày 13 - 17/3/1954) bộ đội ta đã tiêu diệt gọn cứ điểm đồi Him Lam, đồi Độc Lập, đồn Bản Kéo, tiếp đó uy hiếp sân bay Mường Thanh. Thắng lợi đầu tiên của ta làm cho tinh thần binh sĩ địch dao động, thực dân Pháp bàng hoàng.

Chiều ngày 30/3, ta mở đợt tấn công thứ 2, sau nhiều ngày chiến đấu, giành đi giật lại với địch từng tất đất, đến giữa tháng 4 ta chiếm được nửa đồi A1, C1. Bộ chỉ huy của ta chỉ đạo tiếp tục củng cố và xây dựng trận địa, xiết chặt vòng vây, bao vây đánh lấn, bắn tỉa làm cho phạm vi phòng ngự của địch bị thu hẹp, tiếp tế khó khăn.

Tối ngày 1 tháng 5, ta mở đợt tấn công thứ 3 - đợt tấn công cuối cùng vào Điện Biên Phủ. Đúng 20h30' ngày 6/5/1954, khối thuốc nổ 954 kg (từ đường hầm ngầm quân ta đã đào dưới lòng cứ điểm đồi A1) nổ tung, phát lệnh tổng công kích cho toàn mặt trận. Và đến khoảng 17h30', ngày 7/5/1954, Tướng Đờ Cátxtơri và toàn bộ Bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống, quân địch ra đầu hàng, Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.

Một phần bức tranh panorama Chiến thắng Điện Biên Phủ

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một chiến công chói lọi, là chiến dịch có quy mô lớn nhất và giành thắng lợi lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến dịch Điện Biên Phủ khẳng định tài tổ chức, chỉ huy và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chiến dịch thể hiện ý chí, tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí của quân đội nhân dân và sự đồng lòng “Tất cả vì tiền tuyến” của mọi tầng lớp đồng bào ta.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần to lớn làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp ở Việt Nam và Đông Dương, mở đầu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới, cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa ở châu Á, Phi, Mỹ La tinh nổi dậy đấu tranh giành độc lập.

Hồng Thái