Chính trị

Chiến thắng Bình Giã - Giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm

60 năm trước, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, từ ngày 02/12/1964 đến ngày 03/01/1965, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền đã mở Chiến dịch Bình Giã trên địa bàn các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa và hai huyện phía Nam của tỉnh Bình Thuận. Đây là chiến dịch đầu tiên của bộ đội chủ lực Miền, cũng là một trong những chiến dịch đầu tiên của lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam.

Chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa đánh dấu bước trưởng thành của bộ đội chủ lực ta và báo hiệu thất bại của các biện pháp chiến thuật “Trực thăng vận” và “Thiết xa vận” của Mỹ - ngụy trong “Chiến tranh đặc biệt”. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Chiến thắng Bình Giã diễn ra trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam đang bước vào giai đoạn cam go nhất. Sau thất bại của kế hoạch bình định và “Chiến tranh đặc biệt” do Mỹ đề xướng, quân và dân ta đã có những bước tiến quan trọng trong việc phản công và giành thắng lợi. Trong đó, Chiến thắng Bình Giã là một trong những trận đánh tiêu biểu của quân Giải phóng miền Nam, không chỉ mang ý nghĩa chiến thuật mà còn là sự khẳng định rõ ràng về sức mạnh quân sự, ý chí và trí tuệ của cách mạng Việt Nam.

“Ấp chiến lược” Bình Giã (nay thuộc huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu) nằm trên hướng lộ 327 cách chi khu Đức Thạnh (tỉnh Bà Rịa cũ) 4 km, chiều dài của ấp khoảng 4 km, với 4.000 dân di cư theo đạo thiên chúa, phần lớn là gia đình hậu phương của các lực lượng biệt động quân và thủy quân lục chiến ngụy; đây là “ấp chiến lược” “kiểu mẫu” của địch, trong đó số đông Nhân dân bị giáo lý phản động mê hoặc, bị địch lợi dụng chống phá ta.

Từ cuối năm 1964, để cứu vãn sự thất bại của quân đội Sài Gòn, Mỹ và chính quyền tay sai gấp rút triển khai kế hoạch bình định có trọng điểm, tổ chức khu vực Bình Giã, Đức Thạnh, Long Điền, Xuyên Mộc, Đất Đỏ thành 4 chi khu quân sự với lực lượng gồm 4 tiểu đoàn biệt động quân (30, 33, 35, 38), 2 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến (1, 4) của Lữ đoàn 147, 2 tiểu đoàn dù (5, 6), 3 tiểu đoàn bảo an, 2 trung đội pháo binh 105 mm và 1 chi đoàn xe thiết giáp M113. Mỗi chi khu có từ 1 đại đội đến 1 tiểu đoàn bảo an đóng giữ; riêng “ấp chiến lược” Bình Giã, địch tổ chức lực lượng riêng để bảo vệ, chống phá ta quyết liệt. Do tính chất quan trọng của tỉnh Bà Rịa, nên địch ra sức củng cố tỉnh này để tạo thành thế phòng thủ án ngữ mặt phía Bắc và Đông Bắc, bảo vệ căn cứ hải quân Vũng Tàu.

Chấp hành chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh và phương hướng hoạt động tác chiến Đông Xuân 1964 - 1965, đầu tháng 11/1964, Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch tiến công địch tại khu vực Bình Giã - Đức Thạnh - Đường số 2, trên địa bàn các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Thuận (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai và nam tỉnh Bình Thuận) với diện tích gần 500km, trong đó xác định hướng chủ yếu là Bà Rịa - Long Khánh, hướng phối hợp là Nhơn Trạch, Long Thành (Biên Hoà) và Hoài Đức, Tánh Linh (Bình Thuận) nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực, phá kế hoạch bình định trọng điểm của ngụy quyền Sài Gòn, hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy phá “ấp chiến lược”, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng vùng căn cứ cách mạng.

Bộ Tư lệnh Chiến dịch được thành lập gồm: Tư lệnh Trần Đình Xu, Chính uỷ Lê Văn Tưởng, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Nguyễn Hoà, Phó Chính uỷ Lê Xuân Lưu, Phó Tư lệnh Nguyễn Hồng Lâm (Hải Bứa). Lực lượng tham gia chiến dịch có 2 trung đoàn bộ binh (761, 762), Đoàn Pháo binh 80 (4 tiểu đoàn), 2 tiểu đoàn bộ binh (500, 800) chủ lực Quân khu 7; Tiểu đoàn 186 chủ lực Quân khu 6, Đại đội 445 bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa cùng lực lượng dân quân, du kích. Căn cứ nhiệm vụ được giao, ngày 15/11/1964, Bộ Tư lệnh Chiến dịch thông qua quyết tâm tác chiến của chiến dịch.

Đêm ngày 02/12/1964, lực lượng chủ lực Miền đã nổ súng mở màn Chiến dịch Bình Giã. Các lực lượng đã đánh 5 trận cấp trung đoàn, 2 trận cấp tiểu đoàn và kết thúc vào ngày 3/01/1965. Sau hơn 1 tháng chiến đấu, ta loại trên 1.700 địch (bắt 293), trong đó diệt Tiểu đoàn Biệt động quân 33, Tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến 4 và 1 chi đoàn thiết giáp M113; đánh thiệt hại 3 tiểu đoàn biệt động quân (30, 35, 38), 7 đại đội bảo an; làm tan rã hầu hết lực lượng dân vệ trong khu vực; phá huỷ và phá hỏng 45 xe quân sự (phần lớn là M113), bắn rơi, bắn cháy, bắn hỏng 56 máy bay các loại, thu hơn 1 nghìn súng và gần 100 máy thông tin các loại; phá vỡ hàng loạt “ấp chiến lược” ven đường số 2 và đường số 15, giải phóng vùng ven Hàm Tân và toàn bộ huyện Hoài Đức, mở rộng căn cứ Hát Dịch (Bà Rịa) nối liền với Chiến khu Đ và căn cứ Bình Thuận, bảo đảm căn cứ tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc vào bằng đường biển.

Tượng đài Chiến thắng Bình Giã tại Bà Rịa - Vũng Tàu

Ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng Bình Giã

Chiến thắng Bình Giã (1964 - 1965) đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, tạo ra thế và lực mới, góp phần thúc đẩy nhanh sự phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Chiến thắng có ý nghĩa chiến lược to lớn, ảnh hưởng sâu rộng ở trong và ngoài nước, khẳng định tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta, đặc biệt là lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam trong lãnh đạo và tiến hành chiến tranh cách mạng.

Chiến thắng đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy Miền, cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng và mở ra khả năng mới cho cách mạng miền Nam tiến lên đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ; chiến thắng đã tạo bước ngoặt trong so sánh lực lượng và cục diện chiến trường có lợi cho ta, mở ra những điều kiện quan trọng để tiến lên đánh bại các âm mưu chiến lược của Mỹ - ngụy. Đồng thời, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của chủ lực Quân Giải phóng miền Nam, nhất là về nghệ thuật chiến dịch, sử dụng lực lượng, vận dụng cách đánh cũng như các hoạt động tác chiến khác.

Chiến thắng Bình Giã minh chứng sự cần thiết phải nhanh chóng xây dựng bộ đội chủ lực để nâng cao trình độ tác chiến, tổ chức tiến hành các chiến dịch tập trung quy mô lớn hơn trên chiến trường miền Nam. Đây thực sự là đòn quyết định, góp phần làm thất bại quốc sách “ấp chiến lược” vấn đề “xương sống” trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và chiến thuật “thiết xa vận”, “trực thăng vận” của Mỹ - ngụy.

Chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa đánh dấu bước trưởng thành của bộ đội chủ lực ta và báo hiệu thất bại của các biện pháp chiến thuật “Trực thăng vận” và “Thiết xa vận” của Mỹ - ngụy trong “Chiến tranh đặc biệt”.

Phát huy tinh thần Chiến thắng Bình Giã trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Trong bối cảnh thế giới và khu vực trong những năm tới có nhiều thay đổi phức tạp, khó lường, khó dự báo, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và ổn định của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Các thách thức về quốc phòng, an ninh, biến đổi khí hậu, sự cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc cũng đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, hiệu quả những bài học, kinh nghiệm quý báu của Chiến thắng Bình Giã và các trận đánh, chiến dịch tiêu biểu trong chiến tranh giải phóng dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới góp phần quan trọng giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thách thức trong việc xây dựng một đất nước giàu mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Đặc biệt, trong lĩnh vực quốc phòng, tinh thần ấy cần được chuyển hóa thành động lực để xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Chiến thắng Bình Giã để lại nhiều bài học quý báu về tư duy chiến lược, chiến thuật trong chiến tranh. Những kinh nghiệm từ sự sáng tạo, kiên cường trong trận Bình Giã có thể được vận dụng vào việc xây dựng và phát triển nền quốc phòng toàn dân trong giai đoạn hiện nay.

Một trong những bài học lớn từ Chiến thắng Bình Giã là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các lực lượng quân và dân. Trong bối cảnh hiện nay, việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc chính là nền tảng quan trọng nhất trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Sự kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh là yếu tố cốt lõi để xây dựng một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Chiến thắng Bình Giã đã cho thấy sự quan trọng của việc kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, giữa lực lượng tại chỗ và lực lượng chủ lực. Những bài học này vẫn còn nguyên giá trị trong việc xây dựng và phát triển Lực lượng vũ trang Việt Nam hiện nay. Trong đó, cần thiết ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Trong giai đoạn hiện nay, việc phát huy tinh thần Bình Giã không chỉ dừng lại ở lĩnh vực quốc phòng, an ninh mà còn phải lan tỏa ra toàn bộ đời sống xã hội, đặc biệt là trong phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội.

Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Bình Giã không chỉ là dịp để chúng ôn lại truyền thống lịch sử cách mạng, tri ân công lao cống hiến, hy sinh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà còn là cơ hội để chúng ta nhìn nhận, học hỏi và phát huy những bài học quý báu từ cuộc chiến này vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

K.O